Tin mới
Chơi tranh Tết - nét đẹp trong văn hóa Việt

Ngày đăng: 22/01/2012 - 11:05:40

Chơi tranh Tết từ lâu đã là một thú chơi tao nhã, một phong tục cổ truyền đẹp trong dịp Tết Nguyên đán của người Việt. Với màu sắc rực rỡ, đề tài phong phú, đường nét độc đáo, những bức tranh dân gian không đơn thuần để trang trí cho những căn nhà thêm phần ấm áp, rực rỡ sắc màu của mùa Xuân, mà còn là không gian văn hóa với những giá trị thẩm mỹ, triết lý xã hội và ý nghĩa nhân văn sâu sắc.


Tranh Tết - một phần hồn Việt trong lành và nhân hậu
Các cụ ta có câu "Nhất chữ, nhì tranh, tam sành, tứ mộc" đó là 4 thú chơi tao nhã của người Việt xưa. Không ai biết chính xác thú chơi tranh dân gian ngày Tết bắt đầu từ bao giờ, có người cho rằng thú chơi này xuất hiện vào thời Trần (1225-1400), nhưng cũng có người nói nét văn hóa độc đáo này bắt đầu còn sớm hơn, từ thời nhà Lý (1010-1225). Cứ mỗi độ Xuân về, tranh Tết xuất hiện làm cho không khí đón chờ năm mới thêm náo nức, tưng bừng. Thường sau ngày đưa ông Táo, dù nhà giàu hay nghèo người ta cũng đi chợ lựa mua những bức tranh Tết với hy vọng đón vinh hoa, phú quý về nhà, gỡ tranh cũ xuống treo tranh mới lên với hàm ý “Tống cựu, nghinh tân”.
Ngày trước, với các gia đình nông thôn, nhà tranh vách đất có thể trang hoàng với những tờ tranh nhỏ, giá cả phải chăng. Còn đối với người thị thành, việc treo tranh, chơi tranh không đơn giản là chơi cho có không khí Tết, mà bức tranh còn đồng thời là vật trang trí để kiến tạo nên được một không gian sang trọng và quí phái, chứng tỏ được cái lễ giáo gia phong của gia đình.
Những dòng tranh dân gian nổi tiếng là Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Nội) và làng Sình (Huế) với màu sắc sặc sỡ thường được chọn treo trong dịp Tết với nguyện vọng đón chào một năm mới tốt lành, bình an.
Tranh Tết dân gian rất đa dạng về thể loại như tranh tín ngưỡng, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh châm biếm, tranh phong cảnh... Đã là tranh treo Tết thì bao giờ cũng mang một nội dung là cầu chúc cho những gì tốt đẹp. Tranh Tết là thông điệp, gửi lời cầu chúc cho gia chủ một năm phát tài phát lộc, vạn sự như ý.
Phần lớn các gia đình nông thôn thường treo các bức tranh dân gian thuộc nhiều đề tài để bày tỏ đồng thời nhiều ước vọng. Ở gian thờ cúng tổ tiên giữa nhà, các gia đình treo tranh mâm ngũ quả, cuốn thư để trên cao, câu đối để hai bên, tạo sự tôn nghiêm trong gia đình. Ngoài cổng, dán hai bức tranh, một bên là ông Tiến tài, bên kia là ông Tiến lộc, khuôn mặt phúc hậu hiền từ trong trang phục kiểu quan văn, tay cầm tấm biển Tiến tài, Tiến lộc với mong muốn đón nhiều tài lành, phúc ấm cho gia chủ. Có nhà còn dán cặp tranh thần hộ mệnh là những ông tướng nhà trời để xua đuổi ma quỷ, bảo vệ cho gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng. Trong nhà, treo, dán nhiều tranh thuộc dòng tranh dân gian Đông Hồ như tranh “Mẹ con đàn gà” và “Mẹ con đàn lợn” thể hiện cảnh sinh hoạt dân dã, với ước vọng gia đình đông vui, hòa thuận, khát vọng sung túc cả năm. Tranh “Vinh Hoa”, “Phú Quý” với cậu bé mũm mĩm ôm gà, ôm vịt tượng trưng cho điềm phúc. Tranh “Gà trống” sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho Ngũ Quý - năm đức tính quý báu: Văn (vẻ đẹp mào gà), Vũ (cựa gà), Nhân (biết yêu thương đồng loại, kiếm được thức ăn ngon là gọi bầy đàn đến), Dũng (gặp kẻ thù là sẵn sàng giao chiến), Tín (hàng ngày gáy báo giờ rất đúng). Tranh “Hứng dừa” mong cho hạnh phúc lứa đôi. Tranh “Múa lân”, “Múa rồng” là hình ảnh sinh hoạt văn hóa, tâm linh của cả cộng đồng dân cư cầu may mắn, hạnh phúc trong các dịp lễ hội mùa Xuân.
Các gia đình ở thành thị thích treo tranh Hàng Trống. Những tranh thường được lựa chọn là tranh “Tố nữ” thể hiện vẻ đẹp dịu dàng, mới mẻ và rất thân thuộc giữa con người và thiên nhiên. Tranh “Tứ quý” thể hiện ước vọng 4 mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông luôn tràn ngập âm thanh vui tươi. Tranh “Lý ngư vọng nguyệt” ý nói người học trò mong mỏi học tập rồi thi đỗ ví như cá chép vượt vũ môn hóa rồng. Tranh “Thất đồng” vẽ 7 em bé vui chơi với cây đào tiên đang ra hoa kết trái, thỏa mãn mong ước của con người về một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Bộ tranh “Tam đa” tượng trưng cho phúc đức, tài lộc và sống lâu. Ngoài ra, người dân còn treo những bức tranh có đề tài dân dã như bộ Tứ bình vẽ cảnh 4 lớp người lao động trong xã hội gồm Ngư, Tiều, Canh, Mục là những người đánh cá, kiếm củi, làm ruộng, chăn trâu...
Đầu năm mới cũng là dịp người ta quét tước nhà cửa, sửa soạn lại bàn thờ, do vậy các tranh mang đề tài tín ngưỡng cũng được bày bán khá nhiều trong dịp Tết như tranh ông Công, ông Táo. Trong các đền phủ thì là các tranh như Tam toà Thánh Mẫu, hay Tứ phủ, tranh vẽ về các ông Hoàng…
Người chơi tranh xưa cũng có thể lựa chọn những bức tranh dân gian của làng tranh Kim Hoàng. Tương tự tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng thể hiện cuộc sống mộc mạc đơn sơ của người nông dân như trâu, bò, gà, lợn, đời sống làng quê, cảnh ngày Tết...
Bên cạnh những bức tranh Tết mang đậm sắc thái văn hoá, lịch sử, tâm linh, mọi người còn dành vị trí trang trọng trong không gian ngôi nhà để đón chào năm mới bằng những bức vẽ hình con giáp đại diện cho năm. Vào năm Sửu người ta có thể chọn những bức như “Chăn trâu thả diều”, “Chăn trâu thổi sáo” của dòng tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh). Đây là những tranh có nội dung và hình thức đẹp thuần tuý, mộc mạc, phản ánh nét sinh hoạt lao động của người nông dân trong khung cảnh thanh bình, yên ả cùng những ước mơ bình dị nhưng bay cao.
Những làng tranh dân gian nổi tiếng
Làng tranh Đông Hồ nổi tiếng và có truyền thống lâu đời trong số các làng tranh dân gian, còn gọi là làng Mái, nằm trên bờ nam sông Đuống, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Ra đời từ khoảng thế kỷ 17, đây là dòng tranh khắc ván, sử dụng ván gỗ để in tranh. Tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu lần in và được in trên một loại giấy đặc biệt gọi là tờ điệp. Có 5 loại chính là tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và tranh truyện, với rất nhiều mẫu mã phong phú. Màu in tranh chỉ dùng các loại màu chế từ sản vật có trong tự nhiên như: Đen - chế từ than lá tre già, qua công đoạn đốt, ngâm, xay nhuyễn và lọc; Vàng - chế từ hoa hoè; Xanh - chế từ lá tràm; Đỏ - chế từ hoa hiên; Nâu đỏ - chế từ son đá mềm được mài, giã nhỏ, rây kỹ và ngâm nhuyễn; Trắng - chế từ vỏ sò, vỏ điệp được làm ải, xay nhỏ và ủ... Từ màu đến giấy đều bằng các chất liệu tự nhiên đã làm nên sắc màu kỳ diệu, độc đáo của bức tranh dân gian Đông Hồ.
Tranh Hàng Trống có từ cách đây khoảng 400 năm và phát triển hưng thịnh vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, là sự giao thoa giữa văn hoá Phật giáo và Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình chùa với những nét đẹp giản dị trong cuộc sống thường ngày. Tranh Hàng Trống gồm hai dòng, tranh thờ và tranh Tết, với những bức vẽ nổi tiếng như Ngũ hổ, Ông hoàng cưỡi hổ, Mẫu thoải được làm chủ yếu ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón... của Hà Nội. Kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quệt phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế, độ sâu và sống động cho bức tranh.
Kim Hoàng là tên thường gọi của làng tranh với dòng tranh dân gian phát triển khá mạnh từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 - làng Kim Hoàng (huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội). Thế kỷ 19, tranh Kim Hoàng phát triển mạnh, nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915; nay chỉ còn một vài ván in của dòng tranh này được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Tranh Kim Hoàng có nét khắc thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ, màu sắc lại tươi như tranh Hàng Trống. Chính vì thế nó tạo cho dòng tranh này những giá trị riêng. Tranh Kim Hoàng không sử dụng giấy điệp như tranh Đông Hồ hay giấy dó như tranh Hàng Trống mà in trên nền giấy đỏ, giấy hồng điều, hoặc giấy vàng tầu. Ngoài ra, tranh Kim Hoàng có một điểm đặc biệt mà các dòng tranh dân gian khác không có, đó là những câu thơ Hán tự được viết theo lối chữ thảo trên góc trái bức tranh. Cả thơ và hình vẽ tạo nên một chỉnh thể hài hoà, chặt chẽ.
Làng Sình nằm ven bờ sông Hương, nổi tiếng với dòng tranh in mộc bản phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, thờ cúng của người dân khắp vùng cố đô Huế. Khác với các loại tranh dân gian khác, tranh làng Sình sẽ được đốt sau khi cúng xong. Với khoảng hơn 50 đề tài phản ánh tín ngưỡng cổ sơ, chia làm ba loại: tranh nhân vật, đồ vật và gia súc. Người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh... Tranh có nhiều cỡ khác nhau, cũng được in trên giấy mộc quét. Điểm nổi bật ở tranh Làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất phác một cách hồn nhiên. Khi tô màu cho tranh, những nghệ nhân thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên, tạo cho tranh làng Sình những nét độc đáo riêng.
Cùng với những thăng trầm của lịch sử, có dòng tranh phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng tranh theo thời gian mai một đi, giờ chỉ còn trong ký ức. Tranh dân gian không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng thú chơi tranh, người yêu nét đẹp dung dị, mộc mạc của những bức tranh dân gian thì vẫn còn. Những năm gần đây, khi đời sống vật chất ngày càng ổn định, quan niệm “ăn Tết” chuyển dần sang “chơi Tết” và trong xu hướng “tìm về cội nguồn” thì thú chơi tranh Tết có xu hướng quay trở lại. Cách chơi tranh cũng phong phú và đa dạng hơn. Bên cạnh những bức tranh dân gian theo lối vẽ và chất liệu truyền thống còn xuất hiện tranh Tết có chất liệu đa dạng như tranh gốm sứ, tranh đồng, tranh thêu, tranh khảm trai, tranh chạm khắc gỗ, tranh đá quý… Hình thức, chất liệu có thể đổi mới nhưng vẫn dựa trên những đề tài của tranh dân gian “Lý ngư vọng nguyệt”, “Thất đồng”, “Hứng dừa”, “Vinh hoa”, Phú quý”,“Tứ quý”, “Tứ bình”… hàm chứa quan niệm sống, có mục đích giáo dục mọi người ngay từ đầu năm mới rèn đức, luyện tài, tích phúc, để đức cho con cháu đời sau.
Treo tranh Tết là phong tục đẹp của ông cha ta. Cho dù cuộc sống có khó khăn hay đã đủ đầy thì phong tục truyền thống này vẫn được gìn giữ, như một sự khẳng định sức mạnh trường tồn của bản sắc văn hóa dân tộc mỗi khi Tết đến, Xuân về.


Nguồn tin: Tạp chí Quê Hương trên Internet


Xem tin theo ngày: